14/01/2022

Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Đỗ Quang Hiển chia sẻ về khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng sạch

Nhân dịp đầu năm mới báo Thanh Niên có cuộc trao đổi với ông Đỗ Quang Hiển, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc T&T Group - người vẫn hay được giới túc cầu gọi với cái tên gần gũi là “bầu Hiển” để bạn đọc hiểu rõ hơn về tâm tư, suy nghĩ của ông về chiến lược mới này.

PV: Trong 2 năm qua cả nước phải gồng mình chống dịch COVID-19, hàng loạt doanh nghiệp gặp khó khăn phải đóng cửa, giải thể, nhưng T&T Group vẫn liên tiếp triển khai nhiều dự án NLTT mới như điện mặt trời, điện gió, điện khí... nguồn lực nào và tầm nhìn nào cho những quyết định này, thưa ông?

Ông Đỗ Quang Hiển: Hai năm, trải qua dịch bệnh Covid-19 thảm khốc chúng ta mới thấy rõ nhiều vấn đề, mới thấy giá trị của doanh nghiệp (DN), mới biết ai tốt, ai khỏe. Khi càng khó khăn, càng thấy nhiều thứ phải thay đổi, trong quản trị DN, đặc biệt với xã hội và cộng đồng càng phải thay đổi. Đó là sự sẻ chia lợi ích, đùm bọc, tương hỗ lẫn nhau vượt qua sóng gió.

Ở Việt Nam, trước đây trong lĩnh vực năng lượng thì chúng ta ưu tiên phát triển thủy điện và điện than. Cái đó cũng là quy luật phát triển bước đầu mà hầu như quốc gia nào cũng trải qua. Đến hiện nay các quốc gia phát triển họ đã chuyển đổi thẳng từ điện than, thủy điện chuyển sang NLTT (điện mặt trời, điện gió)... Từ 15 năm trước tôi đã có suy nghĩ Việt Nam rồi cũng sẽ đi theo xu hướng như vậy.

Tôi luôn đau đáu và tìm hiểu, nghiên cứu và đặt vấn đề hợp tác với một số đối tác để phát triển NLTT. Đồng thời, cũng có ý kiến với cơ quan quản lý của nhà nước dần dần đưa NLTT vào trong quy hoạch phát triển ngành điện. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy rằng việc này cần có lộ trình, bởi nếu làm sớm quá thì giá điện mặt trời, điện gió rất cao, chưa phù hợp với mức thu nhập của đại đa số người dân Việt Nam. Cũng rất may trong 10 năm qua bản thân tôi, cũng như Tập đoàn T&T đã có nghiên cứu, tìm hiểu, hợp tác với một số đối tác, đồng thời hoạch định chiến lược phù hợp với chủ trương, chính sách của Chính phủ, của Nhà nước khi mở rộng quy hoạch NLTT, kịp thời đăng ký tham gia và đầu tư. Hiện nay Tập đoàn T&T đã đầu tư vào các dự án điện mặt trời, điện gió trên bờ công suất gần 2.000 MW, đã hòa lưới điện quốc gia được xấp xỉ 1.000 MW.

15 năm chuẩn bị chiến lược, T&T Group chắc sẽ không chỉ dừng lại ở công suất vài nghìn MW?

Tất nhiên rồi, như tôi đã từng nói đã không làm thì thôi, khi làm thì phải làm cho thật lớn. T&T Group đã xây dựng tầm nhìn đầu tư vào năng lượng tái tạo cho 10 năm tới và xa hơn đến năm 2045 với rất nhiều mục tiêu cụ thể. Tất cả đều bám sát với quy hoạch lĩnh vực năng lượng của quốc gia, tiềm năng, thế mạnh và chủ trương của Đảng, Nhà nước.

Vừa rồi cũng rất mừng khi Thủ tướng Chính phủ đi dự hội nghị COP 26 ở châu Âu, Chính phủ đã cam kết đến năm 2050 đưa khí thải các bon về 0. Cam kết của Thủ tướng tạo ra niềm tin rất lớn, sẽ tạo ra làn sóng thu hút các tập đoàn thế giới, châu Âu vào Việt Nam. Họ cũng đồng thời đề xuất với Thủ tướng các chiến lược phát triển, trong đó nhấn mạnh chiến lược phát triển năng lượng xanh, mà đặc biệt là điện gió ngoài khơi.

T&T Group đang “se duyên” với rất nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực NLTT. Theo ông, lý do chính họ chọn T&T là gì?

Thứ nhất, so với các DN trên thế giới thì tuổi đời của T&T chưa nhiều, nhưng so với các doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam thì T&T cũng nằm trong nhóm những công ty được thành lập sớm nhất (năm 1993) - nghĩa là kinh nghiệm ở thị trường nội địa có bề dày rất lớn.

Thứ hai, khi nước ngoài họ tìm đối tác trong nước, đầu tiên họ quan tâm quá trình phát triển, trong đó đặc biệt chú ý đến tính cộng đồng, xã hội của DN. Cái này tôi nghĩ cũng là một thế mạnh của T&T Group. Khi chính thức hợp tác mình với họ thống nhất một mục tiêu tập trung chiến lược, mà đầu tiên là phải bám vào mục tiêu - tầm nhìn chiến lược quốc gia, cùng đóng góp vào đấy, đồng thời 2 bên luôn luôn giữ nguyên tắc Win – Win, đôi bên cùng có lợi.

Chúng ta có rất nhiều bài học xương máu hợp tác với nước ngoài, đặc biệt khi họ không chuyển giao công nghệ hoặc chỉ hợp tác để chiếm thị phần hoặc thôn tính, lĩnh vực NLTT còn liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Khi hợp tác với đối tác nước ngoài, T&T Group luôn đề nghị điều kiện phải chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực cho phía Việt Nam, để trong thời gian nhất định chúng ta tự chủ được về công nghệ, quản trị. Quan điểm của tôi là các đối tác nước ngoài khi vào Việt Nam vừa đầu tư có hiệu quả, nhưng đồng thời cũng cần đóng góp, đầu tư vào sự phát triển bền vững của Việt Nam. Không thể vào đầu tư kiếm lợi nhuận rồi rút đi, bởi như thế đất nước ta cuối cùng công nghệ không tiếp cận được, con người không được đào tạo thì không phát triển được. Tôi nói thẳng quan điểm này với đối tác, ban đầu họ không thích bởi có phần bị ép, nhưng sau đó thì rất trân trọng.

Trong các chuyến công du của Thủ tướng Chính phủ cũng như Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước…, T&T Group ký kết hàng loạt dự án với các tập đoàn hàng đầu thế giới lên tới hàng chục tỉ USD. Thực ra, nhiều người nói đó chỉ là ký kết bản ghi nhớ, và cho rằng T&T muốn đánh bóng thương hiệu, chứ tiền đâu mà làm?

Ai cũng có quan điểm riêng, đó là quyền của họ. Tôi làm thật và quan tâm đến hiệu quả chứ không nói chơi, ký chơi. Ví dụ như ngân hàng Standard Chartered cam kết tài trợ 6 tỉ USD cho các dự án xanh của T&T, những dự án đang làm chúng tôi thuê luôn họ tư vấn. Dự án các công ty thành viên đã đầu tư đã hòa lưới điện và đang đầu tư thì khoảng độ 20 công ty với công suất trên 1.000 MW, chúng tôi thuê họ tư vấn tái cấu trúc thành Công ty CP Tập đoàn Năng lượng T&T. Với Standard Chartered, tôi bị bất ngờ bởi trước đó chưa gặp họ, chỉ nghe cấp dưới báo cáo lên là bên Standard Chartered chủ động gửi thư đề nghị tài trợ 6 tỉ USD cho các dự án của tập đoàn, ngay trước chuyến đi dự hội nghị COP 26 của Thủ tướng.

Thứ hai là Tập đoàn Total của Pháp. Sau khi ký kết với T&T, họ cũng bắt đầu nhắm vào một số dự án mà họ biết, dự kiến hai bên sẽ cho ra đời một công ty liên doanh để đầu tư các dự án NLTT tại Việt Nam. Thứ ba là dự án Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng ở Quảng Trị, rồi dự án T&T hợp tác với Tập đoàn Viola của Pháp xử lý rác thải công nghiệp ở Thái Nguyên. Các dự án này phía Standard Chartered sẵn sàng cho vay…

Việt Nam đã có bài học đầu tư ồ ạt các lĩnh vực mới và để lại nhiều hậu quả như điện mặt trời, hay trước đó là bùng nổ các nhà máy xi măng… Vừa rồi trong lĩnh vực NLTT, lại thấy các địa phương đăng ký rất nhiều dự án điện gió ngoài khơi. Ông có rút ra bài học gì cho tập đoàn của mình?

Hiện nay, điện gió ngoài khơi là lĩnh vực hoàn toàn mới đối với Việt Nam, các nhà đầu tư trong nước hầu như đều chưa có kinh nghiệm. Khi hợp tác với các đối tác lớn của nước ngoài, chúng tôi bất ngờ ngay từ năng lực khảo sát, đánh giá bước đầu trước khi đề xuất đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài họ làm bài bản, kỹ càng, khi họ đề xuất với các tỉnh và Chính phủ thì họ đề xuất luôn công suất bao nhiêu, tọa độ nào, phạm vi nào ở ngoài khơi. Họ đề xuất như vậy bởi họ đã khảo sát tất cả các thông số từ vệ tinh, sức gió, độ sâu của biển… tất cả thông số mà cần đánh giá để xác định dự án đầu tư vào có khả thi hay không. Trong khi đó ở Việt Nam hiện nay, chia sẻ thật là có tình trạng “xếp gạch” khi đăng ký đầu tư điện gió ngoài khơi, không dựa trên cơ sở khoa học nào. Có địa phương phạm vi biển mấy nghìn km², có DN vào đăng ký khoanh hết, những DN khác vào thì bảo phạm vi này tôi khoanh đăng ký hết rồi!

Nếu cứ đăng ký kiểu “xếp gạch” như thế thì rất nguy hiểm, vì anh không có tọa độ mà đưa vào đến lúc khảo sát thật nó không có hiệu quả, quy hoạch trở thành không khả thi. Cho nên điện gió ngoài khơi đòi hỏi muốn đầu tư thì khâu khảo sát rất quan trọng, nhà đầu tư cần phải có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm để khảo sát.

Có một vấn đề, nếu chúng ta chỉ làm điện gió thuê tư vấn nước ngoài, nhập thiết bị của họ rồi họ cũng vận hành… vậy chúng ta cũng chẳng khác gì mấy công ty gia công, làm thuê?

Bạn nói đúng, đó là vấn đề chúng ta phải tính toán. Vừa rồi khi hợp tác với các tập đoàn lớn trong điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, T&T Group có gửi bản đề xuất với Chính phủ, đề nghị các đối tác phải lập liên danh đầu tư 1 khu công nghiệp phụ trợ năng lượng tái tạo công nghệ cao tại Việt Nam. Tới đây, khi Việt Nam phát triển nhiều dự án NLTT thì nhu cầu các vật tư, thiết bị của ngành này là rất lớn, sẽ phải nhập khẩu nếu như không có sản xuất trong nước. Bởi vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong 10 năm tới khi đầu tư tiếp nhiều dự án NLTT thì cần phải có nền công nghiệp NLTT, công nghiệp phụ trợ. Khi có công nghiệp phụ trợ NLTT, không những phục vụ thị trường trong nước mà còn xuất khẩu cho khu vực vì xu thế họ cũng là phát triển điện gió, điện mặt trời.

Tôi đặt vấn đề với một tập đoàn lớn của châu Âu là Orsted (Đan Mạch) để đầu tư khu công nghiệp phụ trợ, sản xuất trang thiết bị, vật tư cung cấp cho các dự án NLTT ở Việt Nam và xuất khẩu ra các nước trong khu vực. Hiện nay, dự án này đang được nghiên cứu, khảo sát ở Bình Thuận, Ninh Thuận. Phía Orsted cũng đã đồng ý chủ trương liên doanh đầu tư, tuy nhiên họ cũng bày tỏ băn khoăn quy hoạch trong 10 năm tới trong lĩnh vực NLTT sẽ như thế nào, để họ thấy hiệu quả khi cùng T&T đầu tư khu công nghiệp phụ trợ cho NLTT. Theo Orsted thì với quy hoạch hiện nay, công suất dành cho NLTT ở Việt Nam vẫn còn thấp, nên họ thấy chưa hiệu quả. Ví dụ như về điện gió thì từ nay đến 2030 để thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp sản xuất, phụ trợ, phía Orsted cho rằng tối thiểu công suất điện gió ngoài khơi trong quy hoạch phải được 10 GW.

Quan điểm của ông thế nào về giá trị cốt lõi mà một DN mang lại cho cộng đồng khi đầu tư vào lĩnh vực NLTT đòi hỏi vốn lớn, thời gian dài và rủi ro cao?

Càng khó khăn chúng ta càng phải mạnh mẽ hơn, chữ nguy cơ nó bao hàm cả nguy hiểm rủi ro và xen lẫn những cơ hội. Đầu tư, làm ăn mà chỉ nghĩ đến tiền thì rất khó để thành công, tạo dựng được giá trị bền vững cho công ty. Khi chúng ta làm được sản phẩm, dịch vụ có giá trị và chất lượng cao; bảo vệ được môi trường, góp phần tăng trưởng xanh và bền vững thì lợi nhuận cũng sẽ tự tìm đến thôi. Để làm được điều đó tất nhiên phải có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm. Song điều quan trọng nhất hiện nay theo tôi phải chạy nhanh dựa vào công nghệ, chuyển đổi số bên cạnh việc đào tạo nguồn nhân lực cao. Con người, ở đâu cũng vậy luôn là yếu tố quyết định.

Nhân dịp năm mới dương lịch và sắp tới là tết Nguyên đán Nhâm Dần, ông cũng là người cầm tinh con hổ. Ông thấy con hổ có ảnh hưởng tới tính cách của mình như thế nào?

Người ta nói con hổ là biểu tượng của sự khí phách, mạnh mẽ. Con người tôi thẳng thắn, quyết liệt, và luôn nỗ lực không ngừng cho khát vọng làm một cái gì đó thực sự tạo ra được giá trị bền vững cho xã hội, cho đất nước.

Sắp sang năm mới, ông có lời chúc gì gửi đến mọi người?

Covid-19 còn những diễn biến phức tạp và để lại hậu quả nặng nề. Năm mới, điều đầu tiên, xin gửi lời chúc sức khỏe tới tất cả mọi người. Có sức khỏe mới đủ sức để vượt qua áp lực, khó khăn trong cuộc sống, công việc. Chúc cho tất cả chúng ta có đủ dũng khí, niềm tin và hạnh phúc!

Nguồn Thanh Niên

Chia sẻ: